Những phát minh được các nhà khoa học tình cờ chế tạo trong phòng thí nghiệm hoặc phát hiện trong cuộc sống thường ngày nhưng lại làm thay đổi cả thế giới.
1. Lò vi sóng
Nhờ một sự cố xảy ra trong phòng thí nghiệm, nhà khoa học người Mỹ Percy Spencer đã chế tạo ra chiếc lò vi sóng đầu tiên. Khi đang đứng trước một nam châm điện được dùng để tạo ra năng lượng cho thiết bị radar, Spencer nhận thấy thỏi sô cô la trong túi áo ông tan chảy.
Sau khi tiếp tục thí nghiệm với hạt ngô và nhiều loại thức ăn khác, ông đã cho ra đời một thiết bị sử dụng sóng điện từ siêu nhỏ để làm nóng thực phẩm vào năm 1945. Hiện nay lò vi sóng có mặt ở những căn bếp khắp nơi trên thế giới.
2. Thuốc nổ
Nhà khoa học Thụy Điển nổi tiếng Alfred Nobel là người phát minh ra thuốc nổ qua nhiều sự tình cờ. Gia đình Nobel chuyên sản xuất và kinh doanh nitroglycerin, một chất nổ dạng lỏng, rất thiếu an toàn. Sau khi một vụ nổ nhà máy vào năm 1864 cướp đi sinh mạng người em trai út trong gia đình Nobel, nhà khoa học đã tích cực nghiên cứu để cho ra đời vật liệu cháy nổ an toàn hơn.
Trong một lần vận chuyển nitroglycerin, ông phát hiện một can chứa chất nổ lỏng bị thủng, nhưng một hỗn hợp đá quặng lẫn trong can nhanh chóng hút hết chất lỏng. Quan sát này khiến Nobel nghĩ ra công thức chất nổ dạng rắn không hạn chế sức mạnh của chất nổ. Năm 1867, Nobel đăng ký phát minh này với tên gọi dynamite, mở đường cuộc cách mạng trong ngành xây dựng và chế tạo mìn.
3. Thuốc gây ảo giác LSD
Thuốc gây ảo giác LSD (Lysergic Acid Diethylamide) được nhà hóa học Thụy Sĩ Albert Hoffman chế tạo thành công từ năm 1938 nhưng phải 5 năm sau ông mới tình cờ phát hiện tác dụng gây ảo giác của chất này. Tại phòng thí nghiệm, ông không may nuốt phải hợp chất do chính mình tạo ra, sau đó rơi vào tình trạng bị kích thích mạnh mà ông miêu tả là nhìn thấy "những ảo ảnh với màu sắc sặc sỡ như nhìn qua kính vạn hoa".
Vậy là tình cờ, Hoffman tìm ra một trong những chất kích thích thần kinh mạnh nhất ngày nay. Mặc dù mong muốn của Hoffman là đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng LSD trong y học tâm thần, nhưng trên thực tế người ta lại lạm dụng nó vào mục đích giải trí, đặc biệt trong thập niên 60. Bởi vậy, LSD được chính nhà khoa học gọi là "đứa con hư".
4.Viagra
Vào những năm 1980, khi đang nghiên cứu phát triển một loại thuốc điều trị cao huyết áp, nhóm nghiên cứu thuộc công ty dược phẩm Pfizer được các bệnh nhân dùng thử thuốc cho biết thuốc không có hiệu quả cao như mong đợi, nhưng lại có tác dụng phụ là tăng cương dương.
Ngay lập tức họ chuyển sang tìm hiểu tác dụng phụ và sau đó tiến hành thử nghiệm một loại thuốc có tác dụng chữa trị rối loạn cương dương. Năm 1998, Cục quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Mỹ FDA công nhận loại thuốc mang tên Viagra, tên khoa học là sildenafil citrate.
5. Thuốc kháng sinh Penicillin
Năm 1928, nhà vi khuẩn học người Scotland Alexander Fleming lần đầu tiên phát hiện ra penicillin khi trở về phòng thí nghiệm sau kỳ nghỉ phép và nhận thấy một trong các đĩa nuôi cấy vi khuẩn đã bị một loại nấm lạ xâm nhập. Nhà khoa học đi đến kết luận rằng loại nấm có khả năng tiêu diệt vi khuẩn khi thấy vi khuẩn trong đĩa ngừng phát triển ở những nơi bị nấm xâm nhập. Fleming sau đó gặp khó khăn trong việc nhân giống loại nấm đặc biệt và suýt nữa khiến penicillin bị chìm vào quên lãng.
Gần 13 năm sau, ba nhà khoa học Howard Florey, Norman Heatley và Andrew Moyer mới tìm ra được loại nấm thay thế có khả năng sinh sản mạnh hơn, đủ để tạo thành thuốc thử nghiệm. Kể từ đó, thuốc kháng sinh ra đời và được sử dụng rộng rãi khắp nơi.
6. Thuốc gây mê
Những người góp phần phát hiện ra thuốc gây mê đã quan sát nhiều trường hợp người chịu ảnh hưởng của ête và nitơ ôxit (khí gây cười) không cảm nhận được đau đớn, trước khi đưa các chất này vào sử dụng trong y học. Vào thế kỷ 19, người ta hít các khí này như một hình thức giải trí.
Năm 1844, trong một lần chứng kiến cảnh một người không đau đớn trong khi chân vẫn chảy máu nhờ hít khí, bác sĩ Horace Wells tiến hành nghiên cứu và sử dụng chất này để gây mê chính mình khi nhổ răng. Các bác sĩ William Morton và Charles Jackson cũng bắt đầu sử dụng chất gây mê trong điều trị nha khoa, ê-te cũng được bác sĩ Crawford Long sử dụng khi tiến hành tiểu phẫu. Ngày nay, thuốc gây mê được sử dụng phổ biến trong phẫu thuật để giảm bớt đau đớn cho bệnh nhân.
7. Ngũ cốc ăn sáng Kellogg
Ngũ cốc ăn sáng lần đầu tiên được phát minh tại Mỹ do một chút đãng trí của Will Keith Kellogg, một người chuyên làm công việc nghiên cứu thực đơn cho bệnh nhân tại bệnh viện. Khi đang làm bột bánh mì, Kellogg vô tình để quên bột mì đã nấu chín ở ngoài hàng giờ không ủ, đến khi quay lại lăn bột thì bột mì rời ra thành từng miếng mỏng. Những miếng bột sau đó vẫn được nướng lên và cho ra những miếng snack giòn rụm.
Sản phẩm "bất đắc dĩ" được các bệnh nhân vô cùng thích thú khiến Kellogg quyết tâm mở rộng sản xuất để bán ra thị trường và sử dụng bột ngô làm nguyên liệu chính cho loại thực phẩm mà sau này mọi người đều biết đến với tên gọi là Ngũ cốc ăn sáng Kellogg.
8. Đường tổng hợp saccharin
Năm 1879, Constantine Fahlberg thuộc Đại học Johns Hopkins, Mỹ, phát hiện chất làm ngọt nhân tạo saccharin do không rửa tay sạch sau khi làm thí nghiệm. Khi ăn bánh mì ở nhà, ông thấy bánh có vị ngọt một cách khác thường và phát hiện đó là do chất hóa học dính vào tay khi làm việc trong phòng thí nghiệm.
Nhà nghiên cứu sau đó tiến hành thử nghiệm với loại chất mới này và đăng ký giấy phép độc quyền. Hiện nay, saccharin là một trong số các loại đường nhân tạo không calo được sử dụng phổ biến trên thế giới, nhất là với những bệnh nhân tiểu đường.
9. Miếng khóa dán
Miếng khóa dán thường được dùng cho giày dép, thậm chí có tính ứng dụng cao ở môi trường không trọng lực ngoài vũ trụ, giúp các phi hành gia NASA có thể giữ yên vật thể.
Miếng khóa dán ra đời nhờ một cuộc dạo chơi của George de Mestral, một kỹ sư người Thụy Sĩ. Ông dắt chó đi dạo thì phát hiện những quả ké đầu ngựa bám chặt vào lông chó. Ông nhận thấy trên quả ké có rất nhiều sợi móc câu nhỏ xíu dễ dàng dính vào bề mặt lông mềm của chó cũng như quần áo mặc. Mestral tiến hành thử nghiệm và hoàn thiện phát minh miếng khóa dán vào năm 1955, sử dụng chất liệu nylon để làm lớp móc và lớp lông.
10. Máy điều hòa nhịp tim
Nhà khoa học Wilson Greatbatch vốn có ý định chế tạo thiết bị giúp điều chỉnh nhịp tim ở những bệnh nhân có tim đập loạn nhịp do không nhận được tín hiệu chính xác từ trung ương thần kinh. Các thiết bị lúc bấy giờ đều khá cồng kềnh, trong khi Greatbatch muốn tạo ra một loại máy nhỏ hơn để có thể cấy ghép vào cơ thể bệnh nhân.
Năm 1958, khi đang làm một máy dao động để đo nhịp tim động vật tại Đại học Cornell, Mỹ, Wilson lấy nhầm bóng bán dẫn lắp vào máy và nghe được tiếng dao động đều đặn quen thuộc của nhịp tim đập khi bật máy lên. Năm 1960, máy lắp đặt điều hòa nhịp lần đầu tiên được cấy ghép vào cơ thể người.
Nhờ một sự cố xảy ra trong phòng thí nghiệm, nhà khoa học người Mỹ Percy Spencer đã chế tạo ra chiếc lò vi sóng đầu tiên. Khi đang đứng trước một nam châm điện được dùng để tạo ra năng lượng cho thiết bị radar, Spencer nhận thấy thỏi sô cô la trong túi áo ông tan chảy.
Sau khi tiếp tục thí nghiệm với hạt ngô và nhiều loại thức ăn khác, ông đã cho ra đời một thiết bị sử dụng sóng điện từ siêu nhỏ để làm nóng thực phẩm vào năm 1945. Hiện nay lò vi sóng có mặt ở những căn bếp khắp nơi trên thế giới.
2. Thuốc nổ
Nhà khoa học Thụy Điển nổi tiếng Alfred Nobel là người phát minh ra thuốc nổ qua nhiều sự tình cờ. Gia đình Nobel chuyên sản xuất và kinh doanh nitroglycerin, một chất nổ dạng lỏng, rất thiếu an toàn. Sau khi một vụ nổ nhà máy vào năm 1864 cướp đi sinh mạng người em trai út trong gia đình Nobel, nhà khoa học đã tích cực nghiên cứu để cho ra đời vật liệu cháy nổ an toàn hơn.
Trong một lần vận chuyển nitroglycerin, ông phát hiện một can chứa chất nổ lỏng bị thủng, nhưng một hỗn hợp đá quặng lẫn trong can nhanh chóng hút hết chất lỏng. Quan sát này khiến Nobel nghĩ ra công thức chất nổ dạng rắn không hạn chế sức mạnh của chất nổ. Năm 1867, Nobel đăng ký phát minh này với tên gọi dynamite, mở đường cuộc cách mạng trong ngành xây dựng và chế tạo mìn.
3. Thuốc gây ảo giác LSD
Thuốc gây ảo giác LSD (Lysergic Acid Diethylamide) được nhà hóa học Thụy Sĩ Albert Hoffman chế tạo thành công từ năm 1938 nhưng phải 5 năm sau ông mới tình cờ phát hiện tác dụng gây ảo giác của chất này. Tại phòng thí nghiệm, ông không may nuốt phải hợp chất do chính mình tạo ra, sau đó rơi vào tình trạng bị kích thích mạnh mà ông miêu tả là nhìn thấy "những ảo ảnh với màu sắc sặc sỡ như nhìn qua kính vạn hoa".
Vậy là tình cờ, Hoffman tìm ra một trong những chất kích thích thần kinh mạnh nhất ngày nay. Mặc dù mong muốn của Hoffman là đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng LSD trong y học tâm thần, nhưng trên thực tế người ta lại lạm dụng nó vào mục đích giải trí, đặc biệt trong thập niên 60. Bởi vậy, LSD được chính nhà khoa học gọi là "đứa con hư".
4.Viagra
Vào những năm 1980, khi đang nghiên cứu phát triển một loại thuốc điều trị cao huyết áp, nhóm nghiên cứu thuộc công ty dược phẩm Pfizer được các bệnh nhân dùng thử thuốc cho biết thuốc không có hiệu quả cao như mong đợi, nhưng lại có tác dụng phụ là tăng cương dương.
Ngay lập tức họ chuyển sang tìm hiểu tác dụng phụ và sau đó tiến hành thử nghiệm một loại thuốc có tác dụng chữa trị rối loạn cương dương. Năm 1998, Cục quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Mỹ FDA công nhận loại thuốc mang tên Viagra, tên khoa học là sildenafil citrate.
5. Thuốc kháng sinh Penicillin
Năm 1928, nhà vi khuẩn học người Scotland Alexander Fleming lần đầu tiên phát hiện ra penicillin khi trở về phòng thí nghiệm sau kỳ nghỉ phép và nhận thấy một trong các đĩa nuôi cấy vi khuẩn đã bị một loại nấm lạ xâm nhập. Nhà khoa học đi đến kết luận rằng loại nấm có khả năng tiêu diệt vi khuẩn khi thấy vi khuẩn trong đĩa ngừng phát triển ở những nơi bị nấm xâm nhập. Fleming sau đó gặp khó khăn trong việc nhân giống loại nấm đặc biệt và suýt nữa khiến penicillin bị chìm vào quên lãng.
Gần 13 năm sau, ba nhà khoa học Howard Florey, Norman Heatley và Andrew Moyer mới tìm ra được loại nấm thay thế có khả năng sinh sản mạnh hơn, đủ để tạo thành thuốc thử nghiệm. Kể từ đó, thuốc kháng sinh ra đời và được sử dụng rộng rãi khắp nơi.
6. Thuốc gây mê
Những người góp phần phát hiện ra thuốc gây mê đã quan sát nhiều trường hợp người chịu ảnh hưởng của ête và nitơ ôxit (khí gây cười) không cảm nhận được đau đớn, trước khi đưa các chất này vào sử dụng trong y học. Vào thế kỷ 19, người ta hít các khí này như một hình thức giải trí.
Năm 1844, trong một lần chứng kiến cảnh một người không đau đớn trong khi chân vẫn chảy máu nhờ hít khí, bác sĩ Horace Wells tiến hành nghiên cứu và sử dụng chất này để gây mê chính mình khi nhổ răng. Các bác sĩ William Morton và Charles Jackson cũng bắt đầu sử dụng chất gây mê trong điều trị nha khoa, ê-te cũng được bác sĩ Crawford Long sử dụng khi tiến hành tiểu phẫu. Ngày nay, thuốc gây mê được sử dụng phổ biến trong phẫu thuật để giảm bớt đau đớn cho bệnh nhân.
7. Ngũ cốc ăn sáng Kellogg
Ngũ cốc ăn sáng lần đầu tiên được phát minh tại Mỹ do một chút đãng trí của Will Keith Kellogg, một người chuyên làm công việc nghiên cứu thực đơn cho bệnh nhân tại bệnh viện. Khi đang làm bột bánh mì, Kellogg vô tình để quên bột mì đã nấu chín ở ngoài hàng giờ không ủ, đến khi quay lại lăn bột thì bột mì rời ra thành từng miếng mỏng. Những miếng bột sau đó vẫn được nướng lên và cho ra những miếng snack giòn rụm.
Sản phẩm "bất đắc dĩ" được các bệnh nhân vô cùng thích thú khiến Kellogg quyết tâm mở rộng sản xuất để bán ra thị trường và sử dụng bột ngô làm nguyên liệu chính cho loại thực phẩm mà sau này mọi người đều biết đến với tên gọi là Ngũ cốc ăn sáng Kellogg.
8. Đường tổng hợp saccharin
Năm 1879, Constantine Fahlberg thuộc Đại học Johns Hopkins, Mỹ, phát hiện chất làm ngọt nhân tạo saccharin do không rửa tay sạch sau khi làm thí nghiệm. Khi ăn bánh mì ở nhà, ông thấy bánh có vị ngọt một cách khác thường và phát hiện đó là do chất hóa học dính vào tay khi làm việc trong phòng thí nghiệm.
Nhà nghiên cứu sau đó tiến hành thử nghiệm với loại chất mới này và đăng ký giấy phép độc quyền. Hiện nay, saccharin là một trong số các loại đường nhân tạo không calo được sử dụng phổ biến trên thế giới, nhất là với những bệnh nhân tiểu đường.
9. Miếng khóa dán
Miếng khóa dán thường được dùng cho giày dép, thậm chí có tính ứng dụng cao ở môi trường không trọng lực ngoài vũ trụ, giúp các phi hành gia NASA có thể giữ yên vật thể.
Miếng khóa dán ra đời nhờ một cuộc dạo chơi của George de Mestral, một kỹ sư người Thụy Sĩ. Ông dắt chó đi dạo thì phát hiện những quả ké đầu ngựa bám chặt vào lông chó. Ông nhận thấy trên quả ké có rất nhiều sợi móc câu nhỏ xíu dễ dàng dính vào bề mặt lông mềm của chó cũng như quần áo mặc. Mestral tiến hành thử nghiệm và hoàn thiện phát minh miếng khóa dán vào năm 1955, sử dụng chất liệu nylon để làm lớp móc và lớp lông.
10. Máy điều hòa nhịp tim
Nhà khoa học Wilson Greatbatch vốn có ý định chế tạo thiết bị giúp điều chỉnh nhịp tim ở những bệnh nhân có tim đập loạn nhịp do không nhận được tín hiệu chính xác từ trung ương thần kinh. Các thiết bị lúc bấy giờ đều khá cồng kềnh, trong khi Greatbatch muốn tạo ra một loại máy nhỏ hơn để có thể cấy ghép vào cơ thể bệnh nhân.
Năm 1958, khi đang làm một máy dao động để đo nhịp tim động vật tại Đại học Cornell, Mỹ, Wilson lấy nhầm bóng bán dẫn lắp vào máy và nghe được tiếng dao động đều đặn quen thuộc của nhịp tim đập khi bật máy lên. Năm 1960, máy lắp đặt điều hòa nhịp lần đầu tiên được cấy ghép vào cơ thể người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét